Các nhà lãnh đạo Khai sáng Toàn cầu là những người đóng góp xuất sắc trong việc xuất bản cuốn sách “Xây lại thế giới – Tạo dựng Kỷ nguyên Khai sáng Toàn cầu”. Các nhà lãnh đạo, nhà tư tưởng hàng đầu trên thế giới; những người đã ủng hộ, thực hành và thực hiện các khái niệm, nguyên tắc, ý tưởng, sáng kiến và giải pháp cho cuốn sách này.
Shinzo Abe (21 tháng 9 năm 1954 – 8 tháng 7 năm 2022), Thủ tướng Nhật Bản, người đoạt giải Nhà lãnh đạo Thế giới về Hoà bình và An ninh 2015.
Shinzo Abe là Thủ tướng Nhật bản từ năm 2006 – 2007 và tiếp tục giữ chức vụ này từ năm 2012 – 2020. Trong suốt thời gian làm Thủ tướng, ông Abe đã củng cố lại nền An ninh mạng toàn quốc ở Nhật Bản và khởi động chương trình hoạt động nền tảng về an ninh mạng và chiến lược an ninh mạng. Ông Abe coi an ninh mạng là một vấn đề quan trọng đối với an ninh quốc gia và quản lý khủng hoảng của Nhật Bản, cũng như là một yếu tố quan trọng thúc đẩy Chiến lược tăng trưởng của Nhật Bản.
Cố Thủ tướng Abe đã đóng góp rất lớn trong việc giúp Nhật Bản trở lại vị thế hàng đầu trên trường quốc tế, có lẽ hơn bất kỳ nhà lãnh đạo Nhật Bản nào kể từ Thế chiến II. Điều này có lẽ không có gì để tranh cãi, khi mà ngay cả nhiều người không quan tâm đến chính trường quốc tế cũng biết ông Abe là ai. Thậm chí, khi nhắc đến thủ tướng Nhật Bản, không ít người chỉ có thể liên tưởng tới hình ảnh của ông. Ông Abe có thể nói là biểu tượng của Nhật Bản trong kỷ nguyên hiện đại.
Dưới thời ông làm thủ tướng, Nhật Bản đã tham gia Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và sau đó dẫn đầu việc hồi sinh Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương ( CPTPP ) sau khi Mỹ rút khỏi TPP.
Chính sách kinh tế đặc trưng “Abenomics” của ông Abe được xây dựng dựa trên việc nới lỏng tiền tệ, kích thích tài khóa và cải cách cơ cấu. Được biết đến với lập trường cứng rắn về chính sách quốc phòng và đối ngoại, Abe từ lâu đã tìm cách sửa đổi hiến pháp thời hậu chiến của Nhật Bản, đặc biệt Điều 9 cấm nước này sở hữu lực lượng quân sự và “tiềm năng chiến tranh”.
Ehud Barak tên thật là Ehud Brog, (sinh ngày 12 tháng 2 năm 1942 tại Mishmar HaSharon kibbutz, Palestine [nay thuộc miền bắc Israel]). Ông là một chính trị gia, đồng thời cũng là một vị tướng Israel, ông từng giữ chức thủ tướng của Israel trong những năm từ 1999 đến 2001.
Nhà Lãnh đạo Khai sáng Toàn cầu.
Ashton Baldwin Carter (sinh ngày 24 tháng 9 năm 1954) là Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ thứ 25 từ ngày 17 tháng 2 năm 2015 cho ngày 20 tháng 1 năm 2017.Từ ngày 6 tháng 10 năm 2011 đến ngày 3 tháng 12 năm 2013, ông là thứ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ. Từ tháng 4 năm 2009 đến tháng 10 năm 2011, ông là thứ trưởng phụ trách công tác mua sắm, công nghệ và hậu cần chịu trách nhiệm cho việc mua sắm của tất cả các công nghệ, hệ thống, dịch vụ, vật tư, các căn cứ và cơ sở hạ tầng, năng lượng và môi trường, và hơn 50 tỷ USD hàng năm trong nghiên cứu phát triển. Ngày 5 tháng 12 năm 2014, ông được tổng thống Barack Obama đề cử chức bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ. Ngày 17 tháng 2 năm 2015, ông nhận chức Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ thay thế cho ông Chuck Hagel.
Ông Carter tốt nghiệp Trung học Abington ở Abington, PA, nơi ông đã là Chủ tịch của Hội Danh dự. Ông đã có bằng cử nhân vật lý và cử nhân lịch sử thời Trung cổ từ Đại học Yale, summa cum laude, Phi Beta Kappa trong năm 1976. Ông nhận bằng tiến sĩ vật lý lý thuyết của Đại học Oxford vào năm 1979, nơi ông là một học giả Rhodes. Ông là một giảng viên vật lý tại Đại học Oxford, một nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại Đại học Rockefeller và MIT, và hội viên nghiên cứu thực nghiệm tại các phòng thí nghiệm thực nghiệm quốc gia Brookhaven và Fermilab.
Ông Carter đã thúc đẩy các khoản đầu tư để phát triển năng lực hoạt động và công nghệ mới, đưa ra sáu sáng kiến ’Lực lượng của tương lai’, mở ra các đợt tuyển quân cho phụ nữ mà không có ngoại lệ, đưa các chuyên gia công nghệ vào Lầu Năm Góc để tham gia nhiệm vụ thông qua chương trình Dịch vụ Kỹ thuật số Quốc phòng, khai trương Lầu Năm Góc tiền đồn ở Thung lũng Silicon, Boston, Austin và các trung tâm công nghệ khác để kết nối lại chính phủ và quân đội với các công ty và nhà lãnh đạo khu vực tư nhân có tầm nhìn xa, đồng thời thành lập Ban Đổi mới Quốc phòng đầu tiên của Bộ, thu hút các nhà lãnh đạo tư tưởng như Eric Schmidt của Google Alphabet, nhà vật lý thiên văn Neil Degrasse Tyson, Reid Hoffman của LinkedIn.
Vint Cerf được mệnh danh là “Cha đẻ của Internet”, Phó chủ tịch kiêm Giám đốc truyền bá Internet của Google, Đồng tác giả của Khế ước xã hội cho kỷ nguyên AI, được trao giải thưởng Nhà lãnh đạo thế giới của Hiệp hội AI thế giới năm 2019.
Vinton Gray Cerf (sinh năm 1943, người Mỹ, tốt nghiệp ĐH Stanford) là một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất thế giới và từng được trao giải thưởng ACM A. M. Turing Award 2004 (cho việc cùng nhà khoa học Robert E. Kahn tiên phong nghiên cứu sự hoạt động của Internet, bao gồm thiết kế và triển khai các giao thức giao tiếp cơ bản của Internet, TCP/IP và về mạng máy tính).
Khi còn là sinh viên, Vinton đã thiết kế một giao thức truyền dữ liệu cho mạng ARPANET. Trong ngành khoa học máy tính, giao thức là một hệ thống các định dạng và phương pháp truyền thông tin giữa máy tính và các thiết bị khác.
ARPANET sử dụng công nghệ được gọi là “Chuyển mạch gói”, công nghệ giúp mở rộng phạm vi truyền tín hiệu đến các vệ tinh và thiết bị vô tuyến trong mạng lưới nghiên cứu của DARPA (tạm dịch: Cơ quan Nghiên cứu dự án quốc phòng chuyên sâu Hoa Kỳ).
Mùa hè năm 1973, khi đang giảng dạy và nghiên cứu tại ĐH Stanford, ông và Robert E. Kahn đã phát triển cho DARPA phần cơ bản của giao thức mạng giúp truyền dữ liệu theo dạng gói giữa nhiều kiểu mạng khác nhau, giao thức trên sau này được biết đến như TCP/IP.IP, “giao thức mạng” vận chuyển các gói dữ liệu từ điểm này sang điểm khác trong khi TCP – “giao thức điều khiển truyền vận” định ra các quy tắc giao tiếp cho 2 điểm đích.
Ông và Robert E. Kahn công bố kết quả này năm 1974. TCP/IP sau đó được Hội đồng Kỹ sư Internet (IETF) thông qua và trở thành giao thức chuẩn cho việc truyền tải dữ liệu trên Internet.
Ông hiện là lãnh đạo cấp cao tại Google và tham gia cố vấn nhiều dự án, cơ quan lớn.
Năm 2019, ông được Diễn đàn Toàn cầu Boston trao bằng chứng nhận Giải thưởng Nhà Lãnh đạo Thế giới trong Xã hội Trí tuệ Nhân tạo (World Leader in AI World Society award) và được vinh danh tại Hội nghị Xã hội Trí tuệ Nhân tạo – Thượng đỉnh G7, ngày 25/4/2019 tổ chức ở Loeb House, Đại học Harvard.
Thành viên Hội đồng quản trị BGF
Thành viên Ban tư tưởng của BGF; Giáo sư Khoa học Chính trị tại MIT; Đồng sáng lập, thành viên của Hội đồng phát triển & các nhà giáo dục công dân toàn cầu tại Mạng lưới giáo dục công dân toàn cầu.
Nazli Choucri là Giáo sư Khoa học Chính trị của MIT. Bà làm việc trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, đặc biệt là về nguồn gốc và hậu quả của xung đột và bạo lực quốc tế. Giáo sư Choucri là kiến trúc sư và Giám đốc của Hệ thống Toàn cầu về Phát triển Bền vững (GSSD), một hệ thống mạng lưới tri thức dựa trên web đa ngôn ngữ tập trung vào tính đa chiều của sự bền vững. Với tư cách là Điều tra viên chính của một dự án kéo dài nhiều năm của MIT-Harvard về Khám phá Quan hệ Quốc tế Mạng, bà đã lãnh đạo một sáng kiến nghiên cứu đa lĩnh vực và đa phương pháp. Bà là Biên tập viên của Loạt báo chí MIT về Hiệp ước Môi trường Toàn cầu và trước đây là Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học Chính trị Quốc tế. Bà cũng từng là Phó Giám đốc Chương trình Phát triển và Công nghệ của MIT.
Là tác giả của 11 cuốn sách và hơn 120 bài báo, Tiến sĩ Choucri là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Châu Âu. Bà đã tham gia vào công việc nghiên cứu và cố vấn cho các cơ quan quốc gia và quốc tế, cho một số quốc gia, đặc biệt là Algeria, Canada, Colombia, Ai Cập, Pháp, Đức, Hy Lạp, Honduras, Nhật Bản, Kuwait, Mexico, Pakistan, Qatar, Sudan , Thụy Sĩ, Syria, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Yemen. Bà từng có hai nhiệm kỳ với tư cách là Chủ tịch Ủy ban Cố vấn Khoa học của Chương trình Quản lý Chuyển đổi Xã hội (MOST) của UNESCO.
Giám đốc Sáng kiến Academic Impact Liên Hợp Quốc (UNAI), Đồng Chủ tịch Sáng kiến 100 năm Liên Hợp Quốc – BGF và Sáng kiến UNAI vinh danh 100 năm LHQ vào năm 2045.
Ramu Damodaran gia nhập Ban Truyền thông Toàn cầu của Liên Hợp Quốc năm 1996; trách nhiệm của ông trong Ban bao gồm giám sát các mối quan hệ với xã hội dân sự, cộng đồng sáng tạo và những người ủng hộ người nổi tiếng, các ấn phẩm (bao gồm cả với tư cách là Tổng biên tập của Biên niên sử LHQ ), Thư viện Dag Hammarskjöld và ảnh hưởng học thuật của Liên hợp quốc, mà ông đã được Tổng Thư ký Ban Ki-moon yêu cầu đưa ra và lãnh đạo. Ông cũng là thư ký của Ủy ban Thông tin của Đại hội đồng Liên hợp quốc từ năm 2011. Ông hoàn thành sự nghiệp của mình tại Liên hợp quốc vào tháng 5 năm 2021.
Ông là phát ngôn viên của hội nghị nhân quyền “Durban Review” vào năm 2009 và đã thực hiện một loạt các cam kết phát biểu thay mặt Tổ chức trong sự nghiệp của mình.
Là thành viên của Bộ Ngoại giao Ấn Độ, nơi ông được thăng cấp đại sứ, ông từng là trợ lý điều hành cho Thủ tướng Ấn Độ từ năm 1991 đến 1994 và trước đó tại các Bộ Ngoại giao, Nội vụ, Quốc phòng, Kế hoạch và Phát triển nguồn nhân lực.
Trước khi tham gia phục vụ chính phủ ở Ấn Độ, ông đã làm việc với tư cách là người dẫn chương trình tin tức truyền hình, nhà sản xuất và dẫn chương trình phát thanh, đồng thời là phóng viên trường đại học cho All India Radio và Hindustan Times Evening News. Nhiệm vụ phát thanh của ông về sinh viên đại học ở Delhi đã giành được giải thưởng của Liên minh Phát thanh Châu Á – Thái Bình Dương. Ramu cũng từng là Chủ tịch Hội đồng tái tạo Nhân viên Liên hợp quốc.
Chủ tịch Viện Michael Dukakis về Lãnh đạo và Đổi mới;
Đồng sáng lập, Chủ tịch Diễn đàn Toàn cầu Boston; Đồng sáng lập Sáng kiến Xã hội Vạn vật Trí tuệ Nhân tạo (AI World Society – AIWS)
Ứng cử viên Đảng Dân chủ cho Tổng thống Hoa Kỳ, năm 1988;
Giáo sư xuất sắc J.D., Đại học Harvard
Là Người đồng sáng lập kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị và Ban tư tưởng của Diễn đàn Toàn cầu Boston, Michael Stanley Dukakis đã đạt đến đỉnh cao sự nghiệp với nửa thế kỷ cống hiến cho dịch vụ công, lãnh đạo chính trị, bồi dưỡng sự nghiệp của các nhà lãnh đạo trẻ và thành tựu về học thuật.
Giáo sư Michael Stanley Dukakis được cả thế giới biết đến với cương vị Thống đốc bang Massachusetts, là nhà lãnh đạo lâu năm nhất của bang, bắt đầu nhiệm kỳ đầu tiên vào năm 1975 và 2 lần tái đắc cử vào năm 1982 và 1986. Ông đồng thời là Ứng viên đảng Dân chủ, đối thủ của Bush cha trong cuộc đua tranh vào Nhà Trắng năm 1988. Sinh ra và lớn lên tại Massachusetts – cũng là quê hương của rất nhiều vị Tổng thống Mỹ như John Adams, John Quincy Adams, John Fitzgerald Kennedy, từ nhỏ ông đã được “tận mục sở thị” những bất công và sự phân tầng đẳng cấp xã hội. Đó cũng là nguyên nhân khách quan hình thành nên một Dukakis mang đầy khát vọng hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn cho tất cả mọi tầng lớp.
Ông cũng là Giáo sư danh dự của Đại học Harvard. Từ năm 1991 ông là Giáo sư danh dự của môn Khoa học chính trị tại Đại học Northeastern ở Boston, và từ năm 1996 trở thành giáo sư thỉnh giảng cho khóa học mùa đông tại Đại học UCLA ở Los Angeles.
Trong những năm 1980 của thế kỷ 20, ông được ví như người mở đầu cho “Điều kỳ diệu của Massachusetts”, Dukakis đã cùng Massachusetts trải qua giai đoạn phát triển đỉnh cao của ngành công nghệ và dịch vụ tài chính, nổi bật nhất trong đó là vùng Boston và các vùng lân cận dọc tuyến đường 128. Sự bùng nổ của công nghệ cao ngày càng lan rộng, đã góp phần thúc đẩy kinh tế bang Massachusetts phát triển vượt xa so với nhiều khu vực khác trên nước Mỹ. Tuy nhiên, sau khi Dukakis rời bỏ sự nghiệp chính trị của mình vào năm 1991, “Điều kỳ diệu của Massachusetts” cũng chấm dứt, để lại cho chính quyền Bush nhiều vấn đề nan giải về thất nghiệp và phi công nghiệp hóa dẫn đến suy thoái kinh tế Mỹ sau đó.
Năm 2013, Giáo sư Michael Dukakis đã sang Việt Nam phát biểu tại Lễ công bố 500 Doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam do công ty Vietnam Report tổ chức tại Nhà hát Lớn – Hà Nội.
Thống đốc Michael Dukakis là đồng tác giả Khế ước Xã hội cho Kỷ nguyên Trí tuệ Nhân tạo. và đồng tác giả cuốn sách “Xây lại Thế giới – Tạo dựng Kỷ nguyên Khai sáng Toàn cầu”.
‘Ông là người tiên phong trong hợp tác quốc tế về quản trị trí tuệ nhân tạo (AI), là người ủng hộ hết mình việc ứng dụng dữ liệu và AI một cách toàn diện, có trách nhiệm và hợp tác tích cực cho những Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs). Đại sứ Amandeep Gill còn là đặc phái viên công nghệ của Tổng thư ký Liên hợp quốc.
Ông đi đầu trong các nỗ lực của Liên hợp quốc về hợp tác kỹ thuật số. Ông từng là Giám đốc điều hành kiêm Đồng lãnh đạo Hội đồng cấp cao về hợp tác kỹ thuật số của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc khi trình bày bản báo cáo mang tính định hình về lĩnh vực này – “Kỷ nguyên kỹ thuật số phụ thuộc” hồi tháng 6 năm 2019. Trước khi gia nhập Liên hợp quốc vào năm 2018, ông làm việc với tư cách là Đại sứ cho Ấn Độ. Là một nhà ngoại giao, Đại sứ Gill đã dẫn dắt các cuộc đàm phán về quy định việc sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong hệ thống vũ khí tự trị gây chết người tại Geneva trong những năm 2017-2018.
Các nguyên tắc và quy ước nền đã nhận được sự đồng thuận của 125 quốc gia thông qua dưới sự chủ trì của ông. Đây là một đóng góp quan trọng trong việc đảm bảo luật nhân đạo quốc tế sẽ tiếp tục được áp dụng cho các hệ thống trí tuệ nhân tạo (AI) và con người vẫn cần phải chịu trách nhiệm về các quyết định sinh tử gây ra bởi máy móc. Sau đó, anh ấy và các thành viên của hội đồng các chuyên gia toàn cầu đã cùng nhau đưa ra một bản thảo “Khuyến nghị về đạo đức của trí tuệ nhân tạo” tại UNESCO và đã được các thành viên UNESCO thông qua vào tháng 11 năm 2021.
Đại sứ Gill cũng là người đã hỗ trợ việc thành lập Lực lượng đặc nhiệm về AI đầu tiên cho việc Chuyển đổi số tại Ấn Độ năm 2017. Những bài nghiên cứu và bài viết của ông với tư cách là Giáo sư tại Viện đào tạo sau Đại học Geneva đã góp phần làm tăng nhận thức về phân chia kỹ thuật số và nhu cầu dân chủ hóa cơ hội tiếp cận và sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) cho tất cả các quốc gia và khu vực.
Ông đưa ra lập luận mạnh mẽ rằng việc sử dụng dữ liệu và trí tuệ nhân tạo (AI) một cách toàn diện, có trách nhiệm và hợp tác tích cực có thể đẩy nhanh tiến độ đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs). Với tư cách là Giám đốc điều hành đầu tiên của Tổ chức hợp tác quốc tế nghiên cứu trí tuệ nhân tạo và sức khỏe kỹ thuật số (I-DAIR) – một sáng kiến đa phương có trụ sở đặt tại Geneva, ông đã thúc đẩy việc tiếp cận các nghiên cứu tiên tiến về sức khỏe kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo của những nhà nghiên cứu lâm sàng, nhà hoạch định chính sách và cả các bệnh nhân, đặc biệt ở các quốc gia nhỏ và Nam bán cầu.
Amandeep Gill học Kỹ thuật Điện và Điện tử Truyền thông tại Đại học Kỹ thuật Panjab ở Chandigarh. Ông từng làm kỹ sư điện tử viễn thông một thời gian ngắn trước khi gia nhập Bộ Ngoại giao Ấn Độ vào năm 1992 và phục vụ tại Geneva, Tehran, Sri Lanka cũng như tại trụ sở chính với chức vụ Tổng Giám đốc phụ trách Giải trừ quân bị và An ninh Quốc tế.
Ông sở hữu chứng chỉ sau đại học về ngôn ngữ và lịch sử Pháp tại Đại học Geneva và bằng Tiến sĩ về Học tập và giáo dục quốc tế tại King’s College, London. Ông là một nhà thơ có tác phẩm đã được xuất bản. Ông mang đến một quan điểm liên ngành độc đáo cho những thắc mắc về chính sách và quản trị công nghệ.
Phó Chủ tịch Ủy ban Năng lượng và Thương mại Hạ viện, Thành viên Ủy ban Giám sát và Cải cách Hạ viện.
Robin Kelly là thành viên của Hạ viện Hoa Kỳ, đại diện cho Khu vực Quốc hội quận 2 của Illinois. Bà nhậm chức vào ngày 11 tháng 4 năm 2013. Nhiệm kỳ hiện tại của bà kết thúc vào ngày 3 tháng 1 năm 2023. Bà được ban lãnh đạo Đảng bầu làm chủ tịch Đảng Dân chủ Illinois vào ngày 3 tháng 3 năm 2021
Trước khi được bầu cử vào Hạ viện Hoa Kỳ, bà Robin Kelly từng là giám đốc hành chính của Quận Cook và được bầu vào Hạ viện Illinois. Vào đầu Đại hội thứ 115, bà Robin Kelly được bổ nhiệm vào Ủy ban Đối ngoại và Ủy ban Giám sát và Cải cách Chính phủ.
Bà tốt nghiệp thạc sĩ tại Đại học Bradley và nhận bằng tiến sĩ khoa học chính trị tại Đại học Bắc Illinois.
Nguyên Tổng thư ký Liên hợp quốc
Tổng thư ký Liên hợp quốc (1/1/2007 – 31/12/2016), Chủ trì Sáng kiến đầu tiên về giáo dục toàn cầu của UNESCO, Giải thưởng Lãnh đạo Thế giới vì Hòa bình và An ninh năm 2016.
“Những tiến bộ trong công nghệ và khoa học đã mở ra những cơ hội mới tuyệt vời, nhưng chúng cũng khiến chúng ta phải đối mặt với những rủi ro mới. Khi cuộc sống của chúng ta ngày càng chuyển sang trực tuyến, thì các giá trị và nguyên tắc của chúng ta cũng cần phải như vậy”
Nghiên cứu viên cao cấp, Đại học Latvia
Ông Didzis Klavins là Nghiên cứu viên cao cấp tại Đại học Latvia, Khoa Khoa học Xã hội và Viện Nghiên cứu Chính trị và Xã hội Tiên tiến. Ông cũng là giảng viên thỉnh giảng tại Riga Graduate School of Law (RGSL). Ông Didzis Klavins có bằng Tiến sĩ về Chính trị Quốc tế tại Đại học Latvia (tên luận án: Sự chuyển đổi của Bộ Ngoại giao ở các nước Baltic và Scandinavia, 2004-2012). Ông có bằng Europaeum’s M.A. về Lịch sử và Văn minh Châu Âu (hạng ưu), do Đại học Leiden, Đại học Paris I – Panthéon-Sorbonne và Đại học Oxford đồng cấp. Ông Didzis Klavins đã có nhiều năm làm việc tại Bộ Ngoại giao Cộng hòa Latvia.
Cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nhật Bản
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nhật Bản (9/2019 – 9/2020), Thành viên của Hạ viện, Nhật Bản.
Ông Kono Taro là người có kinh nghiệm chính trường phong phú, trải qua nhiều chức vụ quan trọng trong chính phủ Nhật Bản như Bộ trưởng Phòng vệ, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng cải cách hành chính…
Ông Kono Taro sinh ngày 10/01/1963 tại thành phố Hiratsuka, tỉnh Kanagawa. Ông là người có kinh nghiệm chính trường phong phú, trải qua nhiều chức vụ quan trọng trong chính phủ Nhật Bản như Bộ trưởng Phòng vệ, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng cải cách hành chính…Ở chức vụ nào ông cũng để lại những dấu ấn đặc biệt.
Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Bosnia-Herzegovina, Thành viên Ban Lịch sử AI
Ông Zlatko Lagumdžija là Cựu Thủ tướng và Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Bosnia-Herzegovina, Thành viên Liên minh Lãnh đạo Thế giới – Club de Madrid (WLA-CdM), Thành viên Ban Lịch sử AI.
“Cũng giống như các khế ước xã hội trước đó đã giúp hình thành các xã hội vì một mục đích chung, khế ước xã hội cho Kỷ nguyên AI có một tầm nhìn biến đổi, một tầm nhìn vượt qua các tính năng công nghệ của trí tuệ nhân tạo và tìm cách cung cấp nền tảng cho một xã hội mới.”
Đại sứ Liên minh Châu Âu tại Hoa Kỳ, Giải thưởng Lãnh đạo Thế giới của Hiệp hội AI Thế giới năm 2021
Stavros Lambrinidis là Đại sứ của Liên minh Châu Âu tại Hoa Kỳ, kể từ ngày 1 tháng 3 năm 2019. Từ năm 2012 đến tháng 2 năm 2019, ông là Đại diện Đặc biệt về Nhân quyền của Liên minh Châu Âu. Năm 2011, ông đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao của Hy Lạp.
Từ năm 2004 đến năm 2011, ông hai lần được bầu làm Thành viên Nghị viện Châu Âu (MEP) cùng với Đảng Dân chủ Xã hội Hy Lạp (PASOK). Ông từng là Phó Chủ tịch Nghị viện Châu Âu (2009-11), Phó Chủ tịch Ủy ban Tự do Dân sự, Tư pháp và Nội vụ (2004-09), và Trưởng Phái đoàn PASOK (2005-11). Từ năm 2000 đến năm 2004, ông là Tổng giám đốc của Trung tâm hữu nghị Olympic Quốc tế, một tổ chức của Ủy ban Olympic Quốc tế. Ông từng là đại sứ của Cộng hòa Hy Lạp (1999-2004); Tổng thư ký Bộ Ngoại giao Hy Lạp, phụ trách người Hy Lạp xa xứ (1996-99); và Tham mưu trưởng cho Bộ trưởng Ngoại giao Hy Lạp (1996). Từ năm 1988 đến 1993, ông làm Luật sư tại Wilmer, Cutler & Pickering ở Washington, D.C., chuyên về thương mại quốc tế, giao dịch và trọng tài. Ông Stavros Lambrinidis sinh ra tại Athens, Hy Lạp năm 1962. Ông học Kinh tế và Khoa học Chính trị tại Trường Cao đẳng Amherst (bằng Cử nhân Nghệ thuật năm 1984) và học Luật tại Trường Luật Yale (bằng Tiến sĩ Juris, năm 1988)
Chủ tịch Ủy ban Châu Âu, Lãnh đạo Thế giới vì Hòa bình và An ninh năm 2020
Chủ tịch Ursula von der Leyen là người ủng hộ không mệt mỏi cho một châu Âu thống nhất hơn, một châu Âu sẽ đảm nhận vai trò lớn hơn trong ngoại giao và an ninh quốc tế.
Được đào tạo trở thành bác sĩ, bà Ursula von der Leyen tham gia chính trị với tư cách là một bộ trưởng nội các ở bang Lower Saxony của Đức. Khi bà Angela Merkel trở thành thủ tướng Đức vào năm 2005, bà đã bổ nhiệm Tiến sĩ Ursula von der Leyen làm Bộ trưởng Bộ Các vấn đề Gia đình và Thanh niên, một vị trí phù hợp với công việc của bà về sức khỏe phụ nữ.
Sau bốn năm giữ chức vụ này, bà được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Lao động và Thương binh Xã hội. Sau đó bà được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, là người phụ nữ đầu tiên giữ chức vụ cao nhất đó. Bà Ursula Von der Leyen cũng được vinh danh là bộ trưởng phục vụ lâu nhất của chính phủ Merkel.
Với tư cách là Chủ tịch sắp tới của Ủy ban Châu Âu, vào tháng 12 năm 2019, von der Leyen đã kêu gọi các quy tắc mới cho AI nhằm tôn trọng nhân quyền và an toàn cộng đồng. Tại Hội nghị thượng đỉnh G-20 năm 2019 ở Nhật Bản, Thủ tướng Angela Merkel trước đó đã đề xuất “Nhiệm vụ của Ủy ban tiếp theo là đưa ra một điều gì đó để chúng tôi có quy định tương tự như Quy định chung về bảo vệ dữ liệu nhằm làm rõ rằng trí tuệ nhân tạo phục vụ nhân loại.”
Vào tháng 2 năm 2020, Chủ tịch von der Leyen đã đặt ra Sách trắng về AI để lấy ý kiến cộng đồng. Trong Bài phát biểu về Liên Bang vào tháng 9 năm 2020, bà đã ưu tiên chính sách AI cho Liên minh Châu Âu. Bà đã nói, “Cho dù đó là độ chính xác trong canh tác nông nghiệp, chẩn đoán y tế chính xác hơn hay lái xe tự động an toàn – trí tuệ nhân tạo sẽ mở ra thế giới mới cho chúng ta. Nhưng thế giới này cũng cần luật lệ. Chúng tôi muốn có một bộ quy tắc đặt con người làm trung tâm. Các thuật toán không được là một hộp đen và phải có các quy tắc rõ ràng nếu có sự cố xảy ra. Ủy ban sẽ đề xuất một luật có hiệu lực vào năm tới. Điều này bao gồm quyền kiểm soát đối với dữ liệu cá nhân của chúng ta mà ngày nay vẫn còn quá hiếm.”
Và phát biểu tại Diễn đàn Toàn cầu Boston vào ngày 12 tháng 12 năm 2020, Chủ tịch Ursula von der Leyen đã kêu gọi một Thỏa thuận xuyên Đại Tây Dương về AI, dựa trên các giá trị dân chủ, bao gồm “nhân quyền, đa nguyên, hòa nhập và bảo vệ quyền riêng tư”. Với vai trò lãnh đạo tiên phong của mình, bà đã nhận được Giải thưởng Nhà lãnh đạo Thế giới vì Hòa bình và An ninh năm 2020.
Chủ tịch Ursula von der Leyen là người ủng hộ không mệt mỏi cho một châu Âu thống nhất hơn, một châu Âu sẽ đảm nhận vai trò lớn hơn trong ngoại giao và an ninh quốc tế. Là người đấu tranh cho các quyền và thể chế dân chủ, bà đã chống lại sự xuất hiện của chủ nghĩa dân tộc cánh hữu và chủ nghĩa chuyên chế nhà nước. Bà đã thúc đẩy các nước châu Âu hành động tập thể chống lại COVID-19. Bà cam kết với Liên minh xuyên Đại Tây Dương, thừa nhận trách nhiệm tập thể của EU và Hoa Kỳ trong việc thúc đẩy hòa bình, an ninh và phát triển toàn cầu.
Điều phối viên của Liên minh Toàn cầu về Quản trị Kỹ thuật số tại Nhật Bản và Đài Loan, ông Yasuhide Nakayama lần đầu tiên được bầu làm thành viên Hạ viện vào năm 2003, và kể từ đó đã được bầu lại 5 lần vào Quốc hội với tư cách là đại diện cho Đảng Dân chủ Tự do cầm quyền (LDP).
Trong thời gian đó, ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao (dưới thời Thủ tướng Abe) và gần đây nhất là Bộ trưởng Quốc phòng/Bộ trưởng Văn phòng Nội các (dưới thời Thủ tướng Suga). Ông cũng đã đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong Quốc hội, bao gồm Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Hạ viện.
Vào tháng 11 năm 2021, ông Yasuhide Nakayama được bổ nhiệm làm Cố vấn Đặc biệt về Ngoại giao cho LDP (cho Chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu Chính sách về Đối ngoại, các lĩnh vực phòng thủ và thay đổi cục diện.)
Đại diện Diễn đàn Toàn cầu Boston tại Berlin và Brussel
Ông Paul F. Nemitz là Cố vấn chính của Tổng cục Tư pháp và Người tiêu dùng. Ông được Ủy ban Châu Âu bổ nhiệm vào ngày 12 tháng 4 năm 2017, sau 6 năm được bổ nhiệm làm Giám đốc về Quyền cơ bản và Quyền của công dân.
Với tư cách là Giám đốc, ông Paul Nemitz đã lãnh đạo việc cải cách luật Bảo vệ dữ liệu ở Liên minh Châu Âu, các cuộc đàm phán của EU – US Privacy Shield và các cuộc đàm phán với các Công ty Internet lớn của Hoa Kỳ về Bộ Quy tắc Ứng xử của Liên minh Châu Âu về chống kích động bạo lực và ngôn ngữ kích động trên Internet.
Trước khi gia nhập Tổng cục Tư pháp và Người tiêu dùng, ông Paul Nemitz từng đảm nhiệm các chức vụ trong Dịch vụ Pháp lý của Ủy ban Châu Âu, Nội các của Cao ủy Hợp tác Phát triển và trong Tổng cục Thương mại, Vận tải và Hàng hải.
Ông Paul Nemitz đã đại diện cho Ủy ban Châu Âu trong nhiều trường hợp trước Tòa án Công lý Châu Âu và đã công bố rộng rãi về luật của EU.
Ông là Giáo sư Luật thỉnh giảng tại Đại học Châu Âu ở Bruges; Thành viên của Hội đồng quản trị Verein Gegen Vergessen – Für Demokratie e.V., Berlin; Ông cũng là thành viên của Tönissteiner Kreis e.V., Berlin, Ủy ban Chính sách về Truyền thông và Internet của SPD, Berlin; Hiệp hội Luật Châu Âu của Đức và Hội nhập Arbeitskreis Europäische, Heidelberg.
Ông Paul Nemitz học Luật tại Đại học Hamburg. Ông đã vượt qua các kỳ thi cấp tiểu bang cho ngành tư pháp và trong một thời gian ngắn là trợ giảng cho Luật Hiến pháp và Luật Biển tại Đại học Hamburg.
Ông lấy bằng Thạc sĩ Luật tại Trường Luật Đại học George Washington ở Washington, D.C., với học bổng Fulbright.
Đồng sáng lập, Giám đốc Viện Michael Dukakis về Lãnh đạo và Đổi mới – Sáng tạo; Đồng sáng lập và Tổng Giám Đốc Diễn đàn Toàn cầu Boston – Boston Global Forum. Nhà sáng lập và Tổng biên tập đầu tiên của Báo VietnamNet.
Ông Nguyễn Anh Tuấn là Tổng Biên tập đầu tiên của báo điện tử VietNamNet trong 13 năm. Từ năm 2008 đến 2016, ông là thành viên Hội đồng Cố vấn toàn cầu Trường Kinh doanh Harvard, cùng với Thống đốc Michael Dukakis và các giáo sư Harvard Thomas Patterson, John Quelch, sáng lập “Diễn đàn Toàn cầu Boston từ 12/2012. Năm 2015, ông khởi xướng và là tác giả Bộ Chuẩn Mực Đạo đức và Quy tắc Ứng xử vì Hoà bình & An ninh mạng (ECCC), cùng với các đồng tác giả Thống đốc Michael Dukakis, giáo sư Thomas Patterson (Đại học Harvard), giáo sư John Quelch (Đại học Harvard), giáo sư John Savage (Đại học Brown), giáo sư Carlos Tores (Đại học UCLA). Từ tháng 7/2015, ông là Chủ tịch Ủy ban Cố vấn Quốc tế, Chương trình Giáo dục Công dân Toàn cầu của UNESCO và Đại học California Los Angeles UCLA. Tháng 9/2016 đồng sáng lập và là Tổng Biên tập “Mạng Giáo dục Công dân toàn cầu” (GCEN), và đây cũng là sự hợp tác giữa “Diễn đàn Toàn cầu Boston” với “Chương trình Giáo dục Công dân toàn cầu UNESCO và Đại học UCLA”. Từ tháng 10/2016, ông đưa Chương trình Giáo dục Công dân Toàn cầu đến Việt Nam, khởi xướng sáng kiến “Ngày hoà giải Thế giới” 9/9 hàng năm.
Từ năm 2016 đến năm 2019, ông là người khởi xướng và chủ trì Sáng Kiến Diễn đàn Toàn cầu Boston cho bốn Hội nghị Thượng đỉnh G7 ở Nhật, Ý, Canada, Pháp.
Năm 2017, ông Nguyễn Anh Tuấn cùng với Thống đốc Michael Dukakis và các giáo sư Đại học Harvard và Đại học MIT đã cho ra đời “Sáng kiến Xã hội Trí tuệ Nhân tạo” (AIWS). Sáng kiến đã nêu lên những ý tưởng, mô hình mới, với sự ứng dụng rộng rãi và sâu sắc của trí tuệ nhân tạo như Chính phủ Trí tuệ Nhân tạo, Công dân Trí tuệ Nhân tạo. Ngày 12/12/2019, ông Nguyễn Anh Tuấn cùng các giáo sư của Đại học Harvard, MIT sáng lập Mạng Sáng tạo Xã hội Trí tuệ Nhân tạo – AIWS Innovation Network (AIWS.net) tại Đại học Harvard, Mạng AIWS.net được Bang Massachusetts và Trung tâm Khoa học kết nối, Đại học MIT bảo trợ.
Năm 2018, ông và Giáo sư Jason Furman, Chủ tịch hội đồng cố vấn kinh tế của Tổng thống Obama, là đồng tác giả Chiến Lược Đột Phá Kinh Tế Trí Tuệ Nhân Tạo cho Việt Nam.
Năm 2020 ông là đồng tác giả Khế ước Xã hội cho Kỷ nguyên Trí tuệ Nhân tạo cùng với các nhà lãnh đạo, các nhà tư tưởng lớn.
Năm 2021, ông là Chủ biên cuốn sách “Xây lại thế giới – Tạo dựng Kỷ nguyên Khai sáng Toàn cầu”, với đồng tác giả là các nhà lãnh đạo thế giới như Chủ tịch Uỷ ban Châu Âu Ursla von der Leyen, Chủ tịch Quốc Hội Thuỵ điển Andreas Norlen, Thủ tướng Nhật Shinzo Abe, Thống đốc Michael Dukakis, Cha đẻ thuyết quyền lực mềm Giáo sư Đại học Harvard Joseph Nye, Các Nhà Khoa học Dữ liệu Giáo sư Đại học MIT Alex Sandy Pentland, Giáo sư Đại học UCLA Judea Pearl, cha đẻ Internet Vint Cerf …
Ông là người khởi xướng, tổ chức và cùng tham gia chuyến thăm đặc biệt 17 ngày (2/8/2022-19/8/2022) đến Việt Nam của Cựu thủ tướng Israel Ehud Barak, trong đó có các buổi giới thiệu bản song ngữ Việt – Anh của cuốn sách này.
Chủ tịch Quốc hội Thụy điển
Ngày 26/9, ông Andreas Norlen, nghị sĩ của đảng Ôn hòa, đã tiếp tục được bầu làm Chủ tịch Quốc hội Thụy Điển.
Ông Norlen là thành viên của cơ quan lập pháp Thụy Điển kể từ năm 2006. Trong giai đoạn từ năm 2014 đến 2018, ông giữ vai trò Chủ tịch Ủy ban Hiến pháp. Sau cuộc bầu cử năm 2018, ông đã được bầu vào vị trí Chủ tịch Quốc hội.
Ông được vinh danh với Giải thưởng Lãnh đạo Thế giới vì Hòa bình và An ninh năm 2021. Ông đã thể hiện năng lực xuất sắc bằng cách phối hợp ba chính phủ thành lập liên tiếp tại Thụy Điển một cách hòa bình và hiệu quả. Ông cũng lãnh đạo các sáng kiến để nâng cao dân chủ và số hóa ở Thụy Điển.
Thành viên Ban tư tưởng của BGF
Giáo Sư Joseph Samuel Nye Jr được trao học vị tiến sĩ ngành Khoa học chính trị của ĐH Harvard vào năm 1964. Sau đó, ông đảm nhiệm hàng loạt vị trí quan trọng như: Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ phụ trách các vấn đề an ninh quốc tế, Chủ tịch Hội đồng tình báo quốc gia… Ngoài ra, ông từng là Hiệu trưởng trường chính sách công John F. Kennedy thuộc ĐH Harvard.
Giáo sư Joseph Nye là cố vấn quốc phòng của Thượng nghị sỹ John Kerry trong chiến dịch tranh cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2004. Giáo sư Joseph Nye là chuyên gia trên nhiều lĩnh vực quan hệ quốc tế: quốc phòng, ngoại giao, chính sách đối ngoại, châu Á, châu Âu, chủ nghĩa khủng bố, vũ khí hạt nhân và Liên Hợp Quốc. Ông đã được nhận bằng cử nhân loại ưu ở trường đại học Princeton, Mỹ; và bằng Tiến sỹ khoa học chính trị ở Đại học Harvard. Ông cũng là tác giả của hàng loạt các cuốn sách nổi tiếng: Quyền lực mềm: Các phương tiện để thành công trong nền chính trị thế giới (Soft Power: The Means to Success in World Politics), Tìm hiểu xung đột quốc tế (Understanding International Conflict), Trò chơi quyền lực: Cuốn tiểu thuyết của Washington (The Power Game: A Washington Novel)…
Về nghiên cứu học thuật, ông là người đi tiên phong, đặt nền móng cho học thuyết quyền lực mềm. Năm 2011, học viện chính sách đào tạo, nghiên cứu và quốc tế thuộc Mỹ bầu chọn Giáo sư Joseph Nye đứng vị trÍ thứ 6 trong số những học giả ảnh hưởng nhất đến chính sách đối ngoại của Mỹ suốt 20 năm qua. Cũng trong năm 2011, tạp chí Foreign Policy bình chọn ông là một trong những nhà tư tưởng hàng đầu thế giới hiện tại.
Đầu năm 2010, J. Nye đến Việt Nam. Trong buổi thuyết trình về “sức mạnh mềm” và qua nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi với các chính khách, trí thức, doanh nghiệp Việt Nam, J. Nye trả lời nhiều câu hỏi của những người tham dự và khẳng định “Việt Nam là một câu chuyện rất hấp dẫn trong lịch sử về sự dũng cảm của con người cũng như văn hóa. Việt Nam có tiềm năng về “sức mạnh mềm”. “Việt Nam có thể tận dụng điều đó cho sự phát triển của mình”
Đại diện Diễn đàn Toàn cầu Boston tại Riga
Giáo sư tại Khoa Khoa học Chính trị tại Đại học Latvia và Giám đốc Trung tâm Chính trị Quốc tế, Chủ tịch Tổ chức xuyên Đại Tây Dương của Latvia.
Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổ chức xuyên Đại Tây Dương Latvia (LATO).
Žaneta Ozoliņa là Giáo sư Quan hệ Quốc tế tại Khoa Khoa học Chính trị, Đại học Latvia. Các mối quan tâm nghiên cứu của bà tập trung vào hội nhập châu Âu, an ninh xuyên Đại Tây Dương, giao tiếp chiến lược, hợp tác khu vực ở Vùng Biển Baltic.
Žaneta Ozoliņa là tác giả của hơn 100 bài báo học thuật và là chủ biên của một số cuốn sách, bao gồm như “Suy nghĩ lại về an ninh” (2010), “Giới tính và An ninh con người: Góc nhìn từ Vùng biển Baltic” (2015).
Bà giảng dạy tại Trường Quốc phòng Baltic, Học viện Quân sự Litva, Đại học Nghiên cứu Đối ngoại Bắc Kinh, và nhiều trường khác. Bà từng là chủ tịch của Ủy ban Phân tích Chiến lược dưới thời của Tổng thống Latvia (2004-2008) và là thành viên của Ủy ban Khu vực Nghiên cứu Châu Âu (European Commission, 2008-2012).
Bà đã tham gia vào các dự án quốc tế khác nhau do Nghị viện Châu Âu, Ủy ban Châu Âu, NATO, Hội đồng các Quốc gia Biển Baltic và các cơ quan quốc tế khác ủy quyền. Bà là chủ tịch Hội đồng Đối ngoại của Bộ Ngoại giao Latvia và Hiệp hội Tổ chức Xuyên Đại Tây Dương Latvia, là thành viên của ECFR (Hội đồng Ngoại giao Châu Âu).
Giáo sư Đại học Harvard, thành viên Hội đồng lãnh đạo của Viện Michael Dukakis về Lãnh đạo và Đổi mới – Sáng tạo; và của Diễn đàn Toàn cầu Boston – Boston Global Forum
Giáo sư Thomas Patterson nguyên Giám đốc Nghiên cứu Trung tâm Shorenstein thuộc Đại học Harvard. Trung tâm Shorenstein là trung tâm nghiên cứu Báo chí, Chính trị và Chính sách công uy tín trên thế giới, nơi thu hút được nhiều nhà lãnh đạo truyền thông, nhà báo nổi tiếng thế giới về đây nghiên cứu.
Ông còn là giáo sư lừng danh tại Trường Quản lý Nhà nước Kennedy, thuộc Đại học Harvard.
Một số tác phẩm và công trình nghiên cứu của Giáo sư Thomas Patterson
Cuốn sách đầu tay của Giáo sư Patterson, The Unseeing Eye – Con mắt mù quáng (1976) là một trong 50 cuốn sách có ảnh hưởng nhất thế giới trong nửa sau thế kỷ 20 về đề tài trưng cầu dân ý (theo bình chọn của Hiệp hội Nghiên cứu Trưng cầu Dân ý của Mỹ).
Một cuốn sách gây tiếng vang lớn trong giới học giả Hoa Kỳ của ông là Out of Order – Hỗn loạn (1994). Tổng thống Mỹ Bill Clinton từng khuyên tất cả các chính trị gia và nhà báo đều nên đọc cuốn sách này. Năm 2002, Out of Order nhận được giải thưởng cao quí của Hiệp hội Khoa học Chính trị Hoa Kỳ cho cuốn sách hay nhất thập kỷ 90 của thế kỷ 20 về đề tài chính trị.
Ông còn là tác giả của The American Democracy – Nền dân chủ Mỹ (2003), We the People –Dân tộc chúng ta (2008), The Mass Media Election – Bầu cử với phương tiện truyền thông đại chúng… Trong cuốn sách The American Democracy, Giáo sư Patterson đề cao sự tham gia của công dân Mỹ trong quá trình phát triển nền chính trị dân chủ của nước này cũng như coi chính trị là một môn học có thể thực hành.
Giáo sư Khoa học Máy tính và Giám đốc Phòng thí nghiệm Hệ thống Nhận thức tại UCLA, người nhận giải thưởng A.M. Turing, Giải thưởng nhà Lãnh đạo Thế giới của Hiệp hội AI Thế giới năm 2020.
Ông Judea Pearl, (sinh năm 1936, tại Tel Aviv), là một nhà khoa học máy tính người Mỹ gốc Israel và là người giành giải thưởng A.M năm 2011. Giải thưởng Turing, danh hiệu cao quý nhất trong ngành khoa học máy tính, vì “những đóng góp căn bản cho trí tuệ nhân tạo” của ông.
Ông Judea Pearl nhận bằng cử nhân kỹ thuật điện tại Học viện Công nghệ Technion – Israel ở Haifa vào năm 1960 và bằng thạc sĩ kỹ thuật điện tại Đại học Kỹ thuật Newark (nay là một phần của Học viện Công nghệ New Jersey) vào năm 1961. Sau đó, ông nhận bằng thạc sĩ vật lý của Đại học Rutgers ở New Brunswick, New Jersey, và bằng tiến sĩ về kỹ thuật điện tại Học viện Bách khoa Brooklyn ở New York (nay là Học viện Bách khoa của Đại học New York) vào năm 1965. Ông làm việc tại Phòng thí nghiệm David Sarnoff của RCA Corporation (nay là Sarnoff Corporation) ở Princeton, New Jersey, và về bộ nhớ máy tính của nhà sản xuất Electronic Memories, Inc. (sau này là Electronics Memories and Magnetics Corp.), ở Hawthorne, California. Ông trở thành giáo sư khoa học máy tính tại Đại học California, Los Angeles, vào năm 1970.
Thành viên Hội đồng quản trị BGF
Giáo sư Đại học MIT, thành viên Hội đồng lãnh đạo Viện Michael Dukakis về Lãnh đạo và Đổi mới – Sáng tạo và Diễn đàn Toàn cầu Boston – Boston Global Forum, đồng sáng lập Mạng Sáng tạo Xã hội Trí tuệ Nhân tạo (AIWS.net), đồng tác giả Khế ước Xã hội cho Kỷ nguyên Trí tuệ nhân tạo.
Giáo sư Alex Pentland là một trong những nhà khoa học tính toán được trích dẫn nhiều nhất trên thế giới và Forbes đã vinh danh ông là một trong “7 nhà khoa học dữ liệu xuất sắc nhất thế giới” cùng với những người sáng lập Google. Ông là thành viên của Hội đồng Đối tác Toàn cầu về Dữ liệu Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc, đồng chủ trì các cuộc thảo luận của Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos. Giáo sư Alex Pentland được mời tham gia phát biểu tại các sự kiện thường niên gần đây của OECD, G20, Ngân hàng Thế giới và JP Morgan.
Giáo sư Alex Pentland đã hướng dẫn cho hơn 80 nghiên cứu sinh, gần một nửa trong số đó hiện nay đang là giảng viên tại các trường đại học hàng đầu thế giới. Giáo sư Pentland cùng các sinh viên của mình đã đi tiên phong trong lĩnh vực khoa học xã hội tính toán, kỹ thuật tổ chức, các thiết bị đeo (Google Glass), nhận diện hình ảnh và sinh trắc học hiện đại. Một số cuốn sách gần đây nhất của ông là Xây dựng Nền kinh tế mới (Building the New Economy) và Dữ liệu Đáng tin cậy (Trusted Data), được xuất bản bởi MIT Press, Social Physics và Penguin Press.
Giáo sư Alex Sandy Pentland là đồng tác giả cuốn sách “Xây lại Thế giới – Tạo dựng Kỷ nguyên Khai sáng Toàn cầu”.
George Iain Duncan Smith, thường được gọi tắt là IDS (sinh 9 tháng 4 năm 1954 tại Edinburgh, Scotland) là một chính khách Anh thuộc Đảng Bảo thủ. Ông đã từng được Thủ tướng Anh David Cameron bổ nhiệm làm Bộ trưởng Ngoại giao về Công việc và Lương hưu Anh từ năm 2010 đến năm 2016, được Thủ tướng Anh Tony Blair bổ nhiệm làm Lãnh đạo phe đối lập từ năm 2001 đến năm 2003. Ông là thành viên đầu tiên được bầu vào Quốc hội tại cuộc tổng tuyển cử năm 1992 với tư cách là Thành viên trong Quốc hội.
Duncan Smith sinh ra ở Edinburgh và phục vụ trong đội Cảnh sát Scotland từ năm 1975 đến năm 1981. Trong năm 2010, The Tablet đã đặt tên cho ông là một trong những người Công giáo có ảnh hưởng nhất nước Anh.
Bà Vaira Vike-Freiberga là Tổng thống thứ 6 của Latvia (1999-2007), Chủ tịch Liên minh Lãnh đạo Thế giới – Club de Madrid (WLA-CdM) 2013-2019, Giải thưởng Lãnh đạo Thế giới vì Hòa bình và An ninh 2019.
Tiến sĩ Vaira Vike-Freiberga là Chủ tịch Câu lạc bộ Lãnh đạo Thế giới Madrid từ năm 2014 và là cựu Tổng thống Latvia (1999-2007). Bà đã có công trong việc đưa đất nước của mình trở thành thành viên của Liên minh Châu Âu và NATO, và là Đặc phái viên về cải cách Liên hợp quốc trong các hoạt động quốc tế của bà. Kể từ năm 2007, bà là một diễn giả được mời để chia sẻ về các vấn đề xã hội, giá trị đạo đức và dân chủ. Bà là Phó chủ tịch của nhóm Phản ánh về tương lai lâu dài của châu Âu, và là chủ tịch của nhóm Cấp cao về tự do và đa nguyên của truyền thông ở EU.
Khi còn nhỏ, bà đã rời Latvia để đến tị nạn ở Đức vào năm 1945, sau đó là Maroc thuộc Pháp và Canada, bà lấy bằng Tiến sĩ về tâm lý học (1965) tại Đại học McGill. Sau khi có thành tựu sự nghiệp xuất sắc với tư cách là Giáo sư tại Đại học Montreal, bà trở về quê hương của mình vào năm 1998 để đứng đầu Viện Latvia. Một năm sau, bà được Quốc hội Latvia bầu làm Tổng thống và tái đắc cử vào năm 2003.
Bà là thành viên của bốn Viện hàn lâm, và thành viên Hội đồng quản trị hoặc người bảo trợ của 30 tổ chức quốc tế, bao gồm Ban tư tưởng của Diễn đàn Toàn cầu Boston. Bà đã nhận được nhiều Bằng khen cao quý nhất, cũng như các huân chương và giải thưởng cho những thành tựu xuất sắc trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Bà đã xuất bản 14 cuốn sách và là tác giả của hơn 200 bài báo, chương sách, báo cáo và tài liệu nghe nhìn.